
- U xương dạng xương là gì?
U xương dạng xương (osteoid osteoma) là một tổn thương xương lành tính, kích thước nhỏ. Chưa xác định được căn nguyên. Jaffe là người đầu tiên mô tả tổn thương của u xương dạng xương. Đây là một tổn thương tương đối phổ biến. Chiếm 11% đến 14% các khối u xương lành tính, trong đó 2%- 3% các khối u xương nguyên phát bị cắt bỏ là u xương dạng xương.
U xương dạng xương có thể biểu hiện ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng phần lớn bệnh nhân ở độ tuổi từ 5 đến 20 tuổi, với 50% bệnh nhân từ 10 đến 20 tuổi. Nam giới nhiều hơn nữ giới từ 1,6 đến 4 lần.
U xương dạng xương thường gặp ở các xương dài (chiếm tỷ lệ 80-90%). Phổ biến nhất là xương đùi và xương chày, ít gặp hơn ở các xương dài khác như xương cánh tay… với vị trí đặc trưng nhất là cổ xương đùi và vùng liên mấu chuyển. Ít khi xuất hiện ở các xương dẹt và hộp sọ. Ở cột sống chiếm khoảng 6% các trường hợp.
2. Nguyên nhân gây bệnh
Hiện nay vẫn chưa rõ nguyên nhân gây u xương dạng xương, di truyền được cho là yếu tố quan trọng. Một số tác giả cho rằng nguyên nhân là do virus, do các viêm nhiễm, hoặc liên quan đến miễn dịch.
3. Dấu hiệu lâm sàng thường gặp
Đau là dấu hiệu lâm sàng phổ biến nhất (chiếm 95% bệnh nhân). Đặc điểm của đau là âm ỉ, không ngừng, ban đầu nhẹ và đau từng cơn, tăng cường độ và dai dẳng theo thời gian. Đau có xu hướng tăng lên vào ban đêm. Ngoài ra có thể xuất hiện sưng tấy, viêm đỏ đi kèm với đau tại vị trí u.
Tùy vào vị trí của u ở các vị trí khác nhau mà có những triệu chứng lâm sàng khác nhau.
- Ở cột sống: Gây đau và teo cơ cạnh sống có thể dẫn đến chẩn đoán nhầm là rối loạn thần kinh. Dấu hiệu này thường gặp ở những bệnh nhân bị u xương dạng xương gây đau ở các phần sau của cột sống.
- Tổn thương xương bên trong khớp thường gặp liên quan đến viêm màng hoạt dịch. Đau khớp thường kèm theo co cứng cơ gấp. Giảm biên độ vận động và dáng đi lệch hướng có thể là một dấu hiệu lâm sàng điển hình của u xương dạng xương trong khớp.
- Ở trẻ em, triệu chứng xuất hiện phổ biến nhất là đau về đêm hoặc đi khập khiễng có thể là triệu chứng duy nhất. Nếu tổn thương gần với vùng sụn tăng trưởng, nó có thể rối loạn quá trình tăng trưởng của xương, gây lệch trục hoặc biến dạng chi…
4. Chẩn đoán hình ảnh hỗ trợ
U xương dạng xương thường khu trú trong vỏ xương. Các u xương dạng xương dưới vỏ và trong tủy ít gặp hơn.
X quang thường quy
Là phương pháp được lựa chọn đầu tay.
U xương dạng xương xuất hiện dưới dạng một ổ cản quang nhỏ được bao quanh bởi một vùng biến đổi của xương xơ cứng. Hoặc dày vỏ với các đặc điểm:
- Tổn thương hình rõ nét hình tròn hoặc hình oval.
- Đường kính nhỏ hơn 2cm.
- Có vùng trung tâm dày đặc đồng nhất.
- Có một vùng thấu quang có chu vi từ 1-2mm.
Tuy nhiên có thể khó phát hiện khi nó bị che khuất bởi lớp vỏ xơ cứng hoặc trong các trường hợp tổn thương trong khớp.
Ngoài ra, u xương dạng xương nằm trong tủy có thể không có biểu hiện xơ cứng xương xung quanh. Có thể thấy rõ các biểu hiện gián tiếp của viêm bao hoạt dịch và tràn dịch khớp. Hoặc có thể có các triệu chứng giống như viêm xương khớp. Khi đến muộn, có thể quan sát thấy chứng loãng xương thứ phát và thay đổi hình thái xương.
Nếu u xương lớn hơn 1,5cm, tổn thương thường được chẩn đoán là u nguyên bào xương. U nguyên bào xương phát triển chậm, phần xơ cứng bao quanh không đều và không có ổ xác định.
Xquang có giá thành rẻ và cho kết quả nhanh Tuy nhiên giá trị chẩn đoán định không cao, mang tính định hướng tổn thương là chính.

Chụp cắt lớp vi tính
Trên phim chụp cắt lớp vi tính của u xương dạng xương là một u nhỏ, được phân định rõ, có độ cản quang thấp được bao quanh bởi một phản ứng xơ cứng dày đặc. Có thể thấy rõ các mảng vôi hóa ở trung tâm. Một phát hiện CT được mô tả gần đây là sự hiện diện của các kênh mạch nhỏ, tuyến tính, mật độ thấp có thể bao quanh u xương dạng xương. Khi xuất hiện, các rãnh mạch máu như vậy có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán u xương dạng xương.
Chụp CT rất có giá trị trong việc chẩn đoán u xương dạng xương bên trong hoặc cạnh khớp. Nhiều tác giả đã đề xuất rằng CT phải được sử dụng cho tất cả bệnh nhân nghi ngờ u xương dạng xương vì nó có độ chính xác chẩn đoán tốt hơn so với chụp X quang đơn thuần và cộng hưởng từ. Có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định vị trí u xương dạng xương trước phẫu thuật. CT cũng được mô tả ở những vị trí khó khăn về mặt kỹ thuật, giúp định hướng chọc hút u qua da trong phẫu thuật.
Chụp cộng hưởng từ
Ít có giá trị trong các trường hợp u nằm ở vỏ xương mà chủ yếu có giá trị trong trường hợp u nằm trong phần tủy xương. Các ổ vôi hóa trung tâm u có tín hiệu thấp trên chuỗi xung T1 và tăng nhẹ ở xung T2. Ngoài ra MRI còn cho thấy các dấu hiệu như phù tuỷ xương xung quanh hoặc phản ứng màng xương.
Xạ hình xương
Có giá trị cao trong chẩn đoán các khối u đến sớm mà Xquang và CT chưa phát hiện được ở các vị trí khó như cột sống, các xương cổ chân, trong khớp…được biểu hiện là ổ tăng hấp thu chất phóng xạ.
Ngoài ra có thể sử dụng chụp SPECT đối với những trường hợp u rất nhỏ mà Xquang và CT còn nghi ngờ. Tuy nhiên phương tiện này chụp giá thành còn cao và chỉ có ở những trung tâm chẩn đoán hình ảnh lớn.

Chẩn đoán mô bệnh học
U xương dạng xương là một tổn thương tại vỏ xương hoặc tủy xương, thường gặp ở vỏ xương. Ổ (nidus) được bao quanh bởi xương đã bị xơ cứng với tế bào tạo xương bị dày đặc, có hạt (gritty), tế bào hủy xương xuất hiện.
5. Chẩn đoán phân biệt
Phân biệt u xương dạng xương với các tổn thương tạo xương lành tính khác dựa trên sự khác biệt về kích thước, tính chất trên chẩn đoán hình ảnh. Vị trí, mô bệnh học và các triệu chứng lâm sàng.
- Áp xe Brodie là bệnh cần phân biệt nhất vì cùng là tổn thương đơn độc nhỏ. Đây là vùng vỏ xương có khối ở trung tâm và viền đặc xương xung quanh. Tuy nhiên ổ thấu quang trong áp xe thường nằm lệch bên hoặc không có. Còn ở u xương dạng xương thường ở trung tâm thường nằm ở chinh giữa. Trên Xquang thường khó có thể phân biệt được nhưng CT, MRI và xạ hình có thể giúp phân biệt. Ngoài ra còn phân định được giữa u xương dạng xương và các loại khối u khác, bao gồm u xơ không phân hóa, u nguyên bào sụn, u hạt, u hạt bạch cầu ái toan và các u xương ác tính.
- Phân biệt với u nguyên bào xương: u nguyên bào xương có kích thước lớn hơn (thường hơn 1,5 đến 2 cm) và có xu hướng mở rộng thay vì thoái lui. U nguyên bào xương cũng gây đau nhưng thường không có cơn kịch phát ban đêm đặc trưng như trong u xương dạng xương. Và cơn đau không đáp ứng tốt với salicylat hoặc NSAID. Vị trí u nguyên bào xương thường xuất hiện ở các đốt sống và có thể đi kèm với các triệu chứng thần kinh thường xuyên hơn hoặc co thắt cơ cạnh sống. X quang đơn thuần có thể không đủ khác biệt để chẩn đoán cần chụp CT để phân biệt tổn thương.
6. Các phương pháp điều trị
Nội khoa
Điều trị nội khoa vẫn là phương pháp đầu tay với u xương dạng xương. Thuốc đầu tay là aspirin. Sử dụng aspirin vừa có tác dụng điều trị vừa dùng làm test chẩn đoán.
Ngoài ra có thể sử dụng kết hợp với các thuốc NSAID giúp giảm các triệu chứng đau nhanh hơn.
Phẫu thuật
Chỉ định cho những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị nội khoa. Không sử dụng được aspirin và thuốc chống viêm không steroid kéo dài.
Yếu tố quan trọng nhất cho sự thành công của phẫu thuật là việc xác định chính xác vị trí khối u. Lựa chọn phương pháp điều trị phải đơn giản, chính xác, hiệu quả nhất. Bao gồm:
- Phẫu thuật mở: Phẫu thuật cắt bỏ triệt để khối u, giảm thiểu nguy cơ tái phát. Tuy nhiên xâm lấn nhiều nên nhiều biến chứng có thể xảy ra.
- Điều trị bằng phẫu thuật ít xâm lấn. Phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn bằng nội soi có sự hỗ trợ của video, kính hiển vi hoặc phá u bằng sóng cao tần. Phương pháp thường được thực hiện thông qua da, ít gây tổn thương cho các mô, thời gian phục hồi nhanh và ít để lại sẹo. Phương pháp này thường áp dụng cho các tổn thương trong khớp hơn.
- Phẫu thuật dưới da với sự hỗ trợ của chụp cắt lớp vi tính. Giúp định vị chính xác ổ bệnh (nidus). Dùng kim Kirschner đưa vào qua da và khoan qua lớp vỏ xương để vào trong khối u. Sau đó luồn kim sinh thiết vào khối u, làm sạch, bơm rửa và loại bỏ khối u qua kim này. Tỷ lệ thành công của phương pháp này từ 83-100%.
- Phẫu thuật cắt bỏ khối u có sự tham gia của đồng vị phóng xạ: Bệnh nhân cần chụp xạ hình xương để xác định ổ nidus chính xác tới 2mm. Phương pháp này cho phép theo dõi tiến trình cắt bỏ khối u tạo điều kiện cho phẫu thuật ít ảnh hưởng đến xương lành.
- Phẫu thuật có sự hỗ trợ của máy tính: Là tổng hợp những kỹ thuật hình ảnh và thiết bị theo dõi 3 chiều. Giúp nâng cao hiệu quả phẫu thuật đặc biệt đối với những khối u nhỏ nằm sâu trong xương.
7. Làm gì để phòng bệnh u xương dạng xương?
Đây là khối u lành tính và không rõ căn nguyên. Nếu có bất kỳ triệu chứng bất thường nào thì người bệnh nên đến gặp Bác Sĩ chuyên khoa để được tư vấn điều trị sớm nhất và tốt nhất.
Ths.Bs Trần Quyết, Trung tâm Phẫu thuật Khớp và Y học thể thao bệnh viện đa khoa Tâm Anh. Số 108 Hoàng Như Tiếp, Long Biên, Hà Nội, sđt 0964502886.